TRI ÂN TAM BẢO- ĐẠI LỄ PHẬT ĐẢN SINH - PHẬT THÀNH ĐẠO
TRI ÂN TAM BẢO- ĐẠI LỄ PHẬT ĐẢN SINH - PHẬT THÀNH ĐẠO
TRI ÂN TAM BẢO
Tam bảo ở đây là Phật, Pháp, Tăng. Lấy ngay bản thân Đức Phật, từ hoài bão lớn là muốn cứu độ chúng sanh ra khỏi biển khổ, nên Ngài bỏ lại đằng sau tất cả để xuất gia tìm đạo. Sau khi đắc đạo, chỉ tính ở cõi nhân gian, Ngài vân du dọc sông Hằng thuyết pháp giáo hóa chúng sanh để Chánh pháp được trường tồn. Nói về hoài bão cao cả này, Phật tuyên bố với A-tu-la (Asùrà) Pahàràda, được coi như lời tuyên bố chung, đồng thời như là một tôn chỉ: “Ví như này, Pahàràda, nước biển lớn chỉ có một vị là vị mặn. Cũng vậy, này Pahàràda, Pháp và Luật này cũng chỉ có một vị là vị giải thoát” 3.
Thực ra, sự sống của con người là đáng quý, nhưng cái quý hơn lại là ý nghĩa của nó. Về thân người có được, Phật đã nói rõ trong kinh Hiền ngu chuyện con rùa mù đi tìm bọng cây trôi trên biển trong giông bão. Qua ví dụ này, để nói rõ về cái khó trở lại làm người, Phật kết luận: “Còn mau hơn này các Tỷ-kheo, con rùa mù ấy có thể chui cổ vào khúc cây có lỗ hổng kia; nhưng này các Tỷ-kheo, Ta tuyên bố rằng còn khó hơn được làm người trở lại, một khi người ngu bị rơi vào đọa xứ” 4.
Phật đã từng tuyên bố ở đời có bốn cái khó: “Được sinh làm người là khó, được sống còn khó hơn, được nghe Chánh pháp là khó, được gặp Phật ra đời là khó” 5.
Nói về ý nghĩa tột cùng của cuộc sống, trong kinh Pháp cú, Phật đã chỉ rõ: “Sống trăm tuổi, mà không thấy pháp tối thượng, chẳng bằng sống chỉ một ngày mà thấy pháp tối thượng” 6.
Rõ ràng, cái hoài bão cũng là điều may mắn cao cả tột cùng ấy của chúng sanh phải nhờ vào sự dìu dắt của Phật, Pháp, Tăng. Như vậy, công lao của Tam bảo không gì có thể so sánh được. Nhờ Tam bảo mà ta hiểu được đạo lý và phương pháp tu hành để diệt khổ, bởi vì thâu tóm, đạo Phật chỉ ra cái khổ, nguyên nhân cái khổ và con đường diệt khổ, để đạt hạnh phúc, an vui. Nói về niềm an vui mỹ mãn, Phật đã chỉ ra: “Hạnh phúc thay Đức Phật ra đời, hạnh phúc thay diễn nói Chánh pháp; hạnh phúc thay chúng Tăng hòa hợp, hạnh phúc thay dõng tiến đồng tu” 7.
Tứ ân là phạm trù đạo đức xác định cái tình nghĩa của con người. Vấn đề này, nếu nói theo tinh thần Nho giáo thì người làm ơn đừng bao giờ kể ơn mới là người Nhân, người mang ơn đừng bao giờ quên ơn mới là người Nghĩa. Tư tưởng Tứ ân được dàn trải trong mối quan hệ giữa người và người, giữa người và vật để chuyển tải cái thiện theo tinh thần Phật giáo. Rõ ràng, đây là một điều hiển nhiên trong cuộc sống, nó mang tính khách quan, nằm trong Pháp, cho nên Phật đã từng tuyên bố: Nếu Như Lai ra đời hay không ra đời thì Pháp vẫn vậy.
Ngày nay, những hệ tư tưởng gần Phật giáo như Cao Đài, Hòa Hảo …, dù khác nhau đôi chỗ, nhưng cũng chuyển tải nội dung của Tứ ân để giáo dục về đạo đức cho con người. Qua đó, ta rút ra một nhận xét rằng: những điều hiển nhiên trong cuộc sống, mang tính khách quan thì những tư tưởng lớn phản ánh về nó thường gặp nhau ở những điểm cơ bản. Nếu xét về mặt lịch sử, thì những tư tưởng đó bị ảnh hưởng Phật giáo.
Như vậy, đối với dân chúng, bất kể sang hèn, khác nhau về tôn giáo, đảng phái, nhưng đã sống ở đời thì phải biết bốn ân và tìm tất cả phương tiện để đền trả. Riêng đối với người Phật tử, suy cho kỹ, chúng ta có một hạnh phúc lớn ở đời. Đó là, tuy tiếng là không gặp Phật, nhưng có thể nói, các Tăng Ni ngày đêm đang tích cực hoằng pháp, thì đó chính là các vị Bồ-tát thị hiện để chuyển tải giáo lý của nhà Phật. Mặt khác, Phật - Pháp - Tăng, tuy ba mà một. Cái này, Phật đã tuyên bố nhiều lần. Theo ý nghĩa nhất định, phải nói rằng ta vẫn thường xuyên gặp Phật, Phật vẫn ở bên ta!
Tóm lại, trải qua hơn 2.500 năm ra đời, Phật giáo vẫn luôn luôn mới, đã để lại cho lịch sử văn minh nhân loại một hệ thống giáo lý cao siêu, sâu rộng, được xây dựng từ các bộ phận, các phạm trù đan xen với nhau rất chặt chẽ và lung linh với phép biện chứng phương Đông. Tất cả hệ thống ấy đều nhằm giải thoát cho con người cả thân, khẩu, ý. Trên cơ sở đó, Phật giáo cũng để lại cho nền văn minh nhân loại một nền đạo đức nhân bản lớn, cao đẹp, toàn vẹn, thích hợp với từng tầng lớp, mọi hoàn cảnh và từng lứa tuổi, mà Tứ ân chỉ là một bộ phận. Đạo đức Phật giáo đã cung cấp cho đạo đức học những chuẩn mực rõ ràng, cụ thể, mà chuẩn mực nào cũng hàm chứa tinh thần đại bi, đại trí, đại hùng, đại lực, mang sinh khí hòa bình, tự do, bình đẳng cùng với hoài bão giải phóng cho con người và chúng sanh.
Do vậy, việc giáo dục Tứ ân nói riêng và đạo đức Phật giáo nói chung, đã thực sự cần thiết, nhất là trong giai đoạn hiện nay. Đã đến lúc cần phải gióng lên một hồi chuông cảnh báo về đời sống đạo đức, đồng thời trước mắt, trong các dịp Vu lan, cần lấy tư tưởng Tứ ân để giáo dục, chỉ cho thế hệ trẻ cái tình nghĩa cơ bản ở đời!
Trích trong : Giáo dục tứ ân cho lớp trẻ
TG : Tiến sĩ Tạ chí Hồng
Nguồn : Giacngo.vn